Bại não là tình trạng bệnh lý gây nên bởi tổn thương não bộ không tiến triển theo thời gian, do các nguyên nhân trước, trong và sau sinh cho đến dưới 5 tuổi.
Bại não là tình trạng bệnh lý gây nên bởi tổn thương não bộ không tiến triển theo thời gian, do các nguyên nhân trước, trong và sau sinh cho đến dưới 5 tuổi. Bại não gây ra tình trạng tàn tật về vận động, tinh thần, giác quan và hành vi, .... để lại hậu quả nặng nề cho chính bản thân trẻ, gia đình và còn ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế xã hội. Do vậy cần được phát hiện sớm, can thiệp sớm, kịp thời để hạn chế những di chứng.
Tại Bệnh viện Phục hồi chức năng tỉnh Ninh Bình đã và đang điều trị các cháu Bại não với các phương pháp: Điện trị liệu, Vận động trị liệu, Hoạt động trị liệu, Ngôn ngữ trị liệu, châm cứu,... Nhiều trẻ có kết quả điều trị khá tốt. Qua đó giúp trẻ sinh hoạt độc lập, tự phục vụ bản thân, sớm hoà nhập cộng đồng.
Bác sỹ Bác sỹ Bùi Đức Hoàn - Phó Giám đốc Bệnh viên Phục hồi chức năng tỉnh cho biết:
Nguyên nhân của bệnh bại não
Bại não không phải là một rối loạn do một nguyên nhân duy nhất. Đây là một nhóm các rối loạn kiểm soát vận động giống nhau với nhiều nguyên nhân khác nhau.
Bại não bẩm sinh do các tổn thương não xảy ra khi thai nhi còn nằm trong tử cung hoặc trong khi sinh (chiếm 70%).
Các tổn thương não xảy ra ở trẻ trước 5 tuổi, sau các nhiễm khuẩn thần kinh hay chấn thương sọ não.
Các nguyên nhân gây bại não:
- Nhau thai bất thường không cung cấp đủ oxy và chất dinh dưỡng cho thai nhi.
- Bất đồng nhóm máu giữa mẹ và con.
- Mẹ mắc các bệnh truyền nhiễm trong thai kỳ đầu.
- Trẻ đẻ thiếu tháng hoặc đẻ thấp cân.
- Thiếu oxy kéo dài trong khi sinh hoặc vàng da nặng sau sinh.
Hầu hết các trẻ bại não được sinh non tháng hoặc thiếu oxy trong lúc sinh
Dấu hiệu sớm của bại não
Các dấu hiệu sớm của bại não thường khởi đầu trước 18 tháng tuổi. Cha mẹ là người đầu tiên cho rằng trẻ không phát triển được kỹ năng vận động bình thường. Trẻ chậm lẫy, chậm bò, chậm biết đi so với mốc phát triển bình thường.
Trẻ bị giảm trương lực cơ: chi mềm nhũn, buông thõng, hoặc tăng trương lực cơ: trẻ cứng đờ hoặc vận động cứng nhắc.
Dấu hiệu lâm sàng
Thể co cứng (chiếm 70 - 80% các trường hợp): các cơ cứng nhắc và co cứng thường xuyên. Co cứng 2 chân hoặc nửa người, hay gặp nửa người trái.
Thể loạn trương lực (chiếm 10 - 20% các trường hợp): có những vận động bất thường ở 2 chân và 2 tay. Mặt nhăn nhó, nói khó, chảy nước dãi (là vận động bất thường ở mặt, lưỡi và cơ phát âm, tuy nhiên ít gặp). Các vận động bất thường này mất khi đi ngủ. Ở trẻ lớn biểu hiện viết chậm, không kiểm soát được động tác.
Thể thất điều (chiếm 5 - 10% các trường hợp): bước đi khó khăn, loạng choạng, khó thực hiện động tác chính xác. Run tay, run chân.
Tùy theo vùng não bị tổn thương mà trên lâm sàng biểu hiện các triệu chứng đa dạng: co cứng gấp, nuốt khó, nói khó, rối loạn tư thế hoặc vận động. Có thể rối loạn chức năng các giác quan: điếc, mất ngửi, giảm thị lực. Đôi khi: co giật, chậm phát triển tâm thần, bất thường về hô hấp, rối loạn đái ỉa. mất khả năng học tập.
Vấn đề điều trị
Chủ yếu là quá trình chăm sóc trẻ, giúp trẻ phát triển tối đa. Điều này cần bắt đầu từ rất sớm ngay khi phát hiện bệnh của trẻ.
Trẻ cần được chăm sóc phối hợp với sự kết hợp của bác sĩ điều trị, nhân viên vật lý trị liệu, giáo viên, nhân viên công tác xã hội.
Điều trị bằng nội khoa, phẫu thuật và phục hồi chức năng giúp cải thiện sự phối hợp động tác cơ và dây thần kinh, phòng ngừa hoặc làm giảm tối thiểu các rối loạn chức năng.
Ở những trẻ bại não trưởng thành: giáo dục, tư vấn, các chương trình giải trí, được đến trường, cơ hội việc làm, hòa nhập cộng đồng, nhu cầu thiết yếu như đối với người trưởng thành bình thường, xây dựng gia đình và cuộc sống riêng.
Bác sỹ Bùi Đức Hoàn cũng Khuyến cáo: Có nhiều biện pháp phòng bệnh bại não trước sinh. Bà mẹ cần được theo dõi và quản lý thai nghén chặt chẽ; xét nghiệm yếu tố Rh, dự phòng hậu quả của bất đồng nhóm máu. Nếu có bất đồng nhóm máu thì trẻ phải được thay máu hoặc điều trị vàng da ngay từ những ngày đầu sau sinh. Các bà mẹ cần được phát hiện và điều trị các bệnh mạn tính, các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh dục - tiết niệu, tiêm phòng bệnh Rubeol trước khi mang thai. Tránh tiếp xúc tia phóng xạ, dùng thuốc và các chất kích thích trong quá trình thai nghén. Người mẹ phải khỏe mạnh trước lúc thụ thai, chăm sóc trước sinh tốt, chế độ dinh dưỡng đầy đủ để tránh đẻ non tháng, thấp cân. Bảo vệ trẻ không bị các bệnh nhiễm trùng và chấn thương sọ não.
Nguyễn Minh