Bệnh phong, xưa kia người miền Nam hay gọi là Bệnh Cùi, miền Bắc gọi là Bệnh Hủi, là bệnh nhiễm khuẩn mạn tính gây bệnh ở da và thần kinh ngoại biên, tuy không nguy hiểm chết người nhưng lại có thể để lại di chứng tàn tật nặng nề cho người mắc bệnh phong. Do có nguyên nhân là vi khuẩn, nên Bệnh phong là bệnh lây truyền, chứ không di truyền từ đời này sang đời khác như nhiều người lầm tưởng. 

Ngày nay, bệnh phong không còn là một trong “tứ chứng nan y” như ngày xưa mà đã có thuốc điều trị. Số bệnh nhân mới phát hiện hàng năm ở nước ta cũng  giảm đi đáng kể,  nhưng  nhiều  người vẫn chưa hiểu rõ về căn  bệnh  này,  dẫn  đến  kỳ thị, xa lánh người bệnh và người thân của họ, và bản thân người bệnh cũng không dám trở về sống với cộng đồng mà vẫn tập trung cùng chung sống với nhau tại các khu điều trị. Vậy nên hiểu về bệnh phong như thế nào và làm gì để hạn chế tác hại của căn bệnh này…

Bệnh phong do nguyên nhân nào gây ra?

Bệnh Phong là một bệnh nhiễm khuẩn mạn tính do một vi khuẩn có tên khoa học là Mycobacterium leprae gây ra. Trực khuẩn này do một nhà bác học Na Uy tên là Hansen tìm ra năm 1873, nên còn được gọi  là  trực khuẩn Hansen, và bệnh phong được gọi  là bệnh Hansen. Bệnh chủ yếu gây thương tổn ở da, các dây thần kinh ngoại biên và có thể để lại những tàn tật vĩnh viễn ở cơ thể. Bệnh Phong lây nhiễm không phân biệt độ tuổi, giới tính, dân tộc.

Bệnh Phong lây lan như thế nào? Bệnh có dễ lây không? 

Có 3 yếu tố tham gia vào quá trình lây lan bệnh phong, và làm cho bệnh phong lây ít và rất khó lây: là vi khuẩn Hansen gây bệnh, đường lây, và cơ thể cảm nhiễm:

1. Thứ nhất: Vi khuẩn Hansen, có tên khoa học là Mycobacterium leprae, là một loại trực khuẩn giống như trực khuẩn gây ra Bệnh Lao nhưng yếu ớt hơn. Vi khuẩn Hansen là vi khuẩn ký sinh nội bào bắt buột, chỉ sống được  trong  tế bào da và thần kinh ở người, nó chỉ sống được không quá 48 giờ ra ngoài cơ thể. Chỉ có người mắc bệnh phong nặng, thể nhiều khuẩn mà chưa được điều trị, vi khuẩn còn sống mới có thể lây bệnh sang cho người lành. Khi người bệnh Phong đã được uống thuốc điều trị thì sau 5 ngày vi khuẩn sẽ yếu đi và không còn khả năng lây lan cho cộng đồng xã hội; đó là lý do thứ nhất giải thích tại sao bệnh phong rất khó lây;

2. Thứ hai là đường lây. Bệnh phong chủ yếu lây lan qua đường hô hấp, và qua các vết thương trầy sướt ở da. Người bệnh phong nặng, khi chưa uống  thuốc điều  trị,  lúc hít thở,  sẽ phóng xuất  ra bầu không khí những hạt  sương nước mũi  li  ti, chứa nhiều vi khuẩn bệnh phong, nhưng chỉ có một tỷ lệ nhỏ (khoảng ít hơn 30%) còn khỏe mạnh và có khả năng gây bệnh cho người bị nhiễm mới. Nếu đã uống thuốc, những hạt sương nước mũi đó càng chứa  ít vi khuẩn còn  sống  (dưới 5%) và bị yếu đi nhiều nên khả năng gây bệnh càng khó khăn.

3. Thứ ba: cơ thể cảm nhiễm. Bệnh phong khó lây vì còn tùy thuộc vào sức đề kháng tự nhiên của mỗi người khác nhau. Khoảng 90% dân số trên thế giới có sức đề kháng tự nhiên chống lại bệnh phong: những người này không bao giờ mắc bệnh phong, cho dù có tự tiêm truyền vi khuẩn còn sống vào cơ thể của họ. Đã có ít nhất 20 người trên thế giới tự nguyện tiêm vi khuẩn vào cơ thể mình để gây bệnh thực nghiệm, nhưng đến nay vẫn  chưa có trường  hợp  nào  được  báo  cáo  thành  công… Theo một số tài liệu nghiên cứu khoa học khác, tỷ lệ lây lan giữa những cặp vợ chồng với nhau chỉ từ 3 đến 6%, hay nói khác đi, phải tiếp xúc mật thiết và lâu dài với người bệnh chưa điều trị, mới có nguy cơ mắc bệnh, và nguy cơ đó không lớn hơn 6%, ít lây hơn nhiều so với các bệnh khác như bệnh lao, bệnh cúm… 

Thế nên có thể kết luận rằng, Bệnh Phong là bệnh truyền nhiễm, lây lan từ người bệnh chưa điều trị sang người lành, nhưng lây ít và rất khó lây, bởi những lý do sau:

Nguồn phát sinh vi khuẩn gây ra bệnh phong là rất thấp

Điều kiện sống của vi khuẩn phong rất khó khăn khi ra khỏi cơ thể con người

Việc mắc bệnh phong hay không còn tùy thuộc vào sức đề kháng tự nhiên của từng người.

Làm thế nào để nhận biết được bệnh Phong? 

Trừ những trường hợp không điển hình rất khó nhận dạng, bệnh phong có thể được nhận biết và chẩn đoán một cách dễ dàng dựa trên các dấu hiệu và triệu chứng đầu tiên của bệnh. Các dấu hiệu và triệu chứng đó thường là sự xuất hiện của một hoặc nhiều dát có màu đỏ hoặc nhạt màu hơn vùng da xung quanh kèm theo sự mất cảm giác hoặc mất tiết mồ hôi ở vùng dát da đó (đỏ/bạc màu – không cảm giác – khô). 

Tại sao việc phát hiện và điều trị sớm lại quan trọng như vậy? 

Bệnh Phong thường bắt đầu với những dát da nhưng nó cũng có thể tấn công và làm tổn hại các dây thần kinh ngoại biên. Nếu không được phát hiện và điều trị sớm thì những tổn hại thần kinh này sẽ dẫn đến tàn  tật vĩnh viễn ở mắt, bàn  tay và bàn chân của bệnh nhân cho dù họ có được điều trị khỏi bệnh. Hiện nay bệnh phong được điều trị như thế nào? Nếu đã điều trị thì liệu có để lại di chứng gì không?

Thời gian điều trị là 6 tháng cho thể nhẹ và 12 tháng cho thể nặng. Thuốc được cấp phát miễn phí, được theo dõi uống thuốc đều tại nhà cho đến khi hoàn thành thời gian điều trị và khỏi bệnh.

Nếu người bệnh được phát hiện sớm và điều trị đúng thì sẽ khỏi bệnh hoàn toàn và không để lại di chứng; nếu phát hiện bệnh và điều  trị muộn  thì bệnh vẫn được chữa khỏi hoàn  toàn nhưng có thể để lại di chứng, tàn tật ở mặt,  tay, chân, ảnh hưởng đến sinh hoạt thường ngày. Các di chứng tàn tật này, tùy theo mức độ, có thể được ngành y tế tiếp tục chăm sóc, phẫu thuật tái tạo, phục hồi chức năng, phần nào giúp người tàn tật do bệnh phong có thể trở lại cuộc sống gần bình thường.

                                                                                                                           Diệu Thúy (Tổng hợp)