Luật Phòng chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) được Quốc hội thông qua vào tháng 6/2006 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2007. Trong Luật đã nêu rõ về quyền bình đẳng trong khám chữa bệnh của những người nhiễm HIV/AIDS, người bệnh khi mắc bệnh của chuyên khoa nào thì được khám chữa bệnh tại chuyên khoa đó...

Tuy nhiên, trong công tác khám chữa bệnh, đặc biệt trong công tác cấp cứu những người bệnh, cán bộ y tế là những người có nguy cơ phơi nhiễm với HIV khi cấp cứu cho những người bệnh bị nhiễm HIV/AIDS mà không được biết trước.

 

Do vậy, ngoài mục tiêu cần đảm bảo việc tích cực cứu chữa để cứu sống người bệnh thì việc chuẩn hóa các qui trình cấp cứu, cung cấp đầy đủ các trang thiết bị phòng hộ cá nhân, các phương tiện cấp cứu... để đảm bảo an toàn cho nhân viên y tế, phòng tránh bị lây nhiễm HIV là mục tiêu cần được đề ra tại tất cả các cơ sở khám chữa bệnh.

 

Phơi nhiễm với HIV do tai nạn nghề nghiệp là tiếp xúc trực tiếp với máu và các dịch cơ thể có nhiễm HIV dẫn đến nguy cơ lây nhiễm HIV.

 

1. Các dạng phơi nhiễm

- Do kim đâm khi làm các thủ thuật tiêm truyền, lấy máu xét nghiệm, chọc dò...

- Vết thương do dao mổ và các dụng cụ sắc nhọn khác có dính máu hoặc dịch cơ thể của người bệnh.

- Tổn thương qua da do các ống đựng máu hoặc dịch của người bệnh bị vỡ đâm vào.

- Máu, chất dịch cơ thể của người bệnh bắn vào các vùng da bị tổn thương (chàm, bỏng, viêm loét từ trước) hoặc niêm mạc (mắt, mũi, họng).

- Khác: phơi nhiễm với máu có HIV do bị người khác dùng kim tiêm chứa máu đâm vào hoặc trong khi làm nhiệm vụ đuổi bắt tội phạm...

 

2. Qui trình xử trí sau phơi nhiễm

- Xử lý vết thương tại chỗ;

- Báo cáo người phụ trách và làm biên bản (ghi đầy đủ các thông tin yêu cầu trong Hồ sơ phơi nhiễm);

- Đánh giá nguy cơ phơi nhiễm theo mức độ tổn thương và diện tích tiếp xúc;

- Xác định tình trạng HIV của nguồn gây phơi nhiễm;

- Tư vấn cho người bị phơi nhiễm;

- Điều trị dự phòng bằng thuốc ARV.

 

2.1.  Xử lý vết thương tại chỗ

- Tổn thương da chảy máu: Xối ngay vết thương dưới vòi nước; để vết thương tự chảy máu trong một thời gian ngắn, không nặn bóp vết thương; rửa kỹ bằng xà phòng và nước sạch.

- Phơi nhiễm qua niêm mạc mắt: Rửa sạch bằng nước cất hoặc nước muối NaCl 0.9% liên tục trong 5 phút.

- Phơi nhiễm qua miệng, mũi: Rửa, nhỏ mũi bằng nước cất hoặc dung dịch NaCl 0.9%; súc miệng bằng dung dịch NaCl 0.9% nhiều lần.

 

2.2. Báo cáo người phụ trách và làm biên bản

Nêu rõ ngày giờ, hoàn cảnh xảy ra, đánh giá vết thương, mức độ nguy cơ phơi nhiễm. Lấy chữ ký của những người chứng kiến và chữ ký của người phụ trách.

 

2.3. Đánh giá nguy cơ phơi nhiễm

* Có nguy cơ:

- Tổn thương do kim có chứa máu đâm xuyên qua da gây chảy máu: kim nòng rỗng cỡ to, chứa nhiều máu, đâm sâu nguy cơ cao hơn kim nòng nhỏ, chứa ít máu và đâm xuyên nông.

- Tổn thương da sâu do dao mổ hoặc các ống nghiệm chứa máu và chất dịch cơ thể của người bệnh bị đâm phải.

- Máu và chất dịch của cơ thể người bệnh bắn vào các vùng da, niêm mạc bị tổn thương viêm loét hoặc xây xát. Nếu viêm loét hoặc xây xát rộng thì nguy cơ cao hơn.

- Không có nguy cơ: máu và dịch cơ thể của người bệnh bắn vào vùng da lành.

 

2.4. Xác định tình trạng HIV của nguồn gây phơi nhiễm

Người bệnh đã được xác định HIV (+): Tìm hiểu các thông tin về tiền sử và đáp ứng đối với thuốc ARV. Nếu chưa biết về tình trạng HIV của nguồn gây phơi nhiễm: Tư vấn và lấy máu xét nghiệm HIV.

 

2.5. Xác định tình trạng HIV của người bị phơi nhiễm

- Tư vấn trước và sau khi xét nghiệm HIV theo qui định. Nếu ngay sau khi bị phơi nhiễm, người bị phơi nhiễm có HIV (+): Đã bị nhiễm HIV từ trước, không phải do phơi nhiễm. Nếu HIV (-) tiến hành kiểm tra lại sau 3 và 6 tháng.

 

2.6. Tư vấn cho người bị phơi nhiễm

- Nguy cơ nhiễm HIV, viêm gan vi rút B, C.

- Người bị phơi nhiễm cần được cung cấp các thông tin và được tư vấn thích hợp về phòng phơi nhiễm, lợi ích và nguy cơ.

- Giới thiệu các tác dụng phụ của thuốc và triệu chứng của nhiễm trùng tiên phát: sốt, phát ban, buồn nôn hoặc nôn, thiếu máu, nổi hạch...

- Tư vấn phòng lây nhiễm cho người khác: Người bị phơi nhiễm có thể làm lây truyền HIV cho người khác dù xét nghiệm HIV âm tính (thời kỳ cửa sổ), vì vậy cần phải thực hiện các biện pháp dự phòng lây nhiễm.

- Tư vấn tuân thủ điều trị và hỗ trợ tâm lý cho người bị phơi nhiễm.

 

2.7. Điều trị dự phòng bằng ARV cho người bị phơi nhiễm

- Việc điều trị dự phòng bằng thuốc ARV cho người bị phơi nhiễm HIV được tiến hành càng sớm càng tốt từ 2-6 giờ và trước 72 giờ sau khi bị phơi nhiễm cho tất cả các trường hợp phơi nhiễm có nguy cơ. 

- Phơi nhiễm không có nguy cơ: Không cần phải điều trị.

- Trường hợp không xác định tình trạng HIV của nguồn gây phơi nhiễm: Xử lý như là trường hợp phơi nhiễm với nguồn HIV (+).

 

2.8. Kế hoạch theo dõi

- Theo dõi tác dụng phụ của thuốc ARV.

- Người được điều trị ARV dự phòng cần được tư vấn các tác dụng phụ có thể gặp khi sử dụng thuốc cũng như cách xử trí.

- Xét nghiệm HIV sau 1, 3 và 6 tháng.

- Hỗ trợ tâm lý nếu cần thiết.

                   

soytehanoi


Tác giả: soytehanoi